Khuôn Đôn Chậu Cảnh Tròn 1m1 - 1m2

Ứng dụng trong điều trị bệnh của cây Thiên Trúc Quỳ (Pelargonium)

Thiên trúc quỳ (Pelargonium) là một chi thực vật có hoa bao gồm khoảng 200 loài cây lâu năm, bao gồm cả loài xương rồng và cây bụi. Đôi khi, do nhầm lẫn, chúng còn được gọi là hoa phong lữ, tuy nhiên đây không phải là tên khoa học chính xác của chi này. Thực tế, Phong lữ là tên của một chi riêng biệt của cây có liên quan, thường được gọi là cranesbills hoặc phong lữ hardy. Cả hai chi đều thuộc về gia đình Họ Mỏ hạc (Geraniaceae). Sự nhầm lẫn này bắt nguồn từ việc Linnaeus ban đầu bao gồm tất cả các loài trong một chi, Phong lữ, nhưng sau đó đã được tách thành hai chi khác nhau vào năm 1789 bởi Charles L'Héritier.


Thiên Trúc Quỳ (Pelargonium)

Thiên trúc quỳ là một chi lớn trong họ Mỏ hạc, một họ thực vật có hoa. Họ Mỏ hạc (danh pháp khoa học: Geraniaceae) bao gồm cả chi Geranium (các loài mỏ hạc) và các loài cây trồng làm cảnh như quỳ thiên trúc, phong lữ, mà các nhà thực vật học ngày nay phân loại thuộc chi Pelargonium, cùng với các chi có hình dạng bề ngoài tương tự khác.

Trong họ Mỏ hạc có khoảng 805 loài, phân bổ trong khoảng 7 đến 14 chi; danh sách các chi trong bảng phân loại thuộc bài này lấy từ cơ sở dữ liệu của Vườn thực vật Hoàng Gia Kew, Anh quốc. Về mặt số lượng, quan trọng nhất là các chi Geranium, Pelargonium và Erodium. Phần lớn các loài được tìm thấy trong các khu vực ôn đới hoặc ôn đới ấm, đặc biệt là miền Nam châu Phi, mặc dù có một số loài sinh trưởng trong khu vực nhiệt đới. Các loài cây này có thể là cây sống một năm hoặc lâu năm. Phần lớn các loài cây có thân lớn có thân gỗ, được bao phủ bởi lông. Hoa của chúng có 5 cánh và chủ yếu là lưỡng tính.


>>> Xem thêm bài viết Hoa sỏi (Lithops) là hoa gì?

Ứng dụng trong điều trị bệnh

Các hợp chất được tìm thấy trong cây Thiên trúc quỳ đã được áp dụng để điều trị các bệnh như viêm phế quản, cảm lạnh và cúm, và viêm xoang. Các thí nghiệm cho thấy rằng các hợp chất này có tác dụng ức chế nhiều loại vi khuẩn gây bệnh và tăng cường miễn dịch. Tác dụng kháng khuẩn và kháng virus của cây Thiên trúc quỳ là do chứa axit gallic và các phenol khác, các hợp chất trong cây có tính chống oxy hóa.

Một nghiên cứu trên 217 người mắc viêm phế quản cấp đã cho thấy rằng chỉ sau 3 ngày sử dụng 30 giọt chiết xuất rễ cây Thiên trúc quỳ trong vòng 7 ngày, các triệu chứng đã được cải thiện đáng kể so với nhóm dùng giả dược. Các triệu chứng bao gồm ho, tiết đờm, mệt mỏi, và khan tiếng. Nghiên cứu tương tự trên nhóm bệnh nhân mắc viêm xoang cũng cho kết quả khả quan.

Ngoài rễ, hoa của cây Thiên trúc quỳ cũng có tác dụng kháng khuẩn và tiêu viêm tương tự như rễ cây. Liều dùng mỗi ngày khoảng 5ml dịch chiết xuất từ rễ hoặc hoa trong các trường hợp viêm nhiễm đường hô hấp, viêm xoang và nhiễm khuẩn đường tiêu hóa.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số trường hợp có thể gặp khó chịu nhẹ ở dạ dày, phát ban, và các rối loạn hệ thần kinh, ngứa, sưng khi sử dụng chiết xuất rễ cây Thiên trúc quỳ. Cũng cần xem xét an toàn khi sử dụng dược liệu này trong thời kỳ mang thai và cho con bú chưa được xác định.

Nhận xét